Th.s Nguyễn Duy Trường
Th.s Lê Nữ Như Quỳnh
Tóm tắt: Nhận thức rõ tầm quan trọng của ngoại giao văn hóa là “quyền lực mềm” trong hợp tác quốc tế, những năm qua, Việt Nam và Nhật Bản đã triển khai nhiều hoạt động đối ngoại mang tầm chiến lược với hình thức và nội dung đa dạng theo hướng đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả. Những thành tựu đạt được là rất quan trọng, góp phần tạo nên thành công của công tác đối ngoại nói chung và quan hệ hợp tác Việt Nam – Nhật Bản nói riêng. Bước sang thập niên 30 của thế kỉ XXI, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những biến chuyển phức tạp, đồng thời để mối quan hệ này phát triển sâu rộng, bền vững, ngoại giao văn hóa phải được quan tâm đầu tư thỏa đáng, thiết thực và hiệu quả hơn nữa.
Trong bài viết, tác giả khái quát những hoạt động của ngoại giao văn hóa trong quan hệ Việt - Nhật thời gian qua, từ đó đưa ra những nhận xét và xác định nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên trong thời gian tới, tiếp tục góp phần phát triển quan hệ lên tầm “Đối tác Chiến lược Tin cậy, Thân thiết”.
Từ khóa: Ngoại giao văn hóa; đối tác chiến lược; hợp tác; Việt Nam; Nhật Bản.
Cultural diplomacy - “soft power” to strengthen Vietnam - Japan relations
Abstract: Recognizing the importance of cultural diplomacy as “soft power” in international cooperation, over the past years, Vietnam and Japan have implemented many strategic diplomatic activities with diverse forms and contents in the direction of depth, practicality and efficiency. The achievements are very important, contributing to the success of foreign affairs in general and Vietnam-Japan cooperation in particular. Entering the 30s of the 21st century, the world and regional situation continued to have complicated changes, and in order for this relationship to develop deeply and sustainably, cultural diplomacy must be paid more attention to appropriate, practical and effective investment.
In the article, the author summarizes the activities of cultural diplomacy in Vietnam-Japan relations in the past time, thereby giving comments and identifying priority key tasks in the coming time, continuing to contribute to the development of relations to the level of "Reliable and Close Strategic Partnership".
Keywords: Cultural diplomacy; strategic partnership; cooperation; Vietnam; Japan.
1. Mở đầu
Hiện nay, khái niệm ngoại giao văn hóa được tiếp cận đa dạng với nhiều quan điểm vừa tương đồng, vừa khác biệt. Tổng hợp các quan điểm, chúng ta có thể hiểu ngoại giao văn hóa là hoạt động ngoại giao gắn liền với văn hóa, theo đó, văn hóa được sử dụng như một đối tượng, phương tiện thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ đối ngoại, nhằm đạt được các mục tiêu, lợi ích cơ bản của quốc gia liên quan đến an ninh, phát triển và mở rộng ảnh hưởng, đồng thời xây dựng bản sắc ngoại giao của quốc gia.
Quan điểm sử dụng ngoại giao văn hóa như một công cụ “quyền lực mềm”, “sức mạnh mềm” ngày càng được chính phủ Nhật Bản củng cố và phát huy, hướng đến mục tiêu là “gây ảnh hưởng tới những người khác thông qua sự thu hút hơn là bắt buộc hoặc mua chuộc bằng tiền” [8]. Dưới thời chính quyền Thủ tướng Koizumi Junichiro (2001-2006), chiến lược ngoại giao văn hóa thể hiện trong Cương lĩnh Ngoại giao văn hóa thế kỉ XXI “Giao lưu văn hóa của quốc gia hòa bình” (7/2005), được xây dựng và triển khai thực hiện dựa trên ba mục tiêu và ba trụ cột chính là: “truyền bá” - “hấp thụ” - “cộng sinh”, tập trung vào các hoạt động như thúc đẩy giáo dục tiếng Nhật, truyền bá văn hóa công nghiệp nội dung, tiếp nhận và hấp thu sáng tạo văn hóa, thúc đẩy đối thoại giữa các nền văn minh, truyền bá quan niệm cơ bản của hợp tác quốc tế Nhật Bản, bảo vệ các di sản văn hóa nhân loại [7, tr. 55]. Trong khi đó, Việt Nam xác định: Ngoại giao văn hóa là một trong ba trụ cột chính của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, nhằm “tăng cường quảng bá làm cho bạn bè quốc tế hiểu biết và tin cậy Việt Nam hơn, qua đó thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Việt Nam với các quốc gia, các tổ chức khu vực và quốc tế” [1]. Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 (22/8/2016), thuật ngữ “sức mạnh mềm” và các nội hàm “sức mạnh mềm văn hóa” là yếu tố then chốt của sức mạnh quốc gia, được đề cập chính thức. Gần đây, Hội nghị “Triển khai Chiến lược Ngoại giao văn hóa đến năm 2030: Chủ động thích ứng, góp phần lan tỏa giá trị và quảng bá sản phẩm Việt Nam” (20/12/2021) xác định: Mục tiêu công tác ngoại giao văn hóa là “đưa quan hệ Việt Nam với các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định, bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc, tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động nguồn lực bên ngoài, biến điều kiện thuận lợi, vị thế đất nước thành nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời dùng các biện pháp ngoại giao để tôn vinh các giá trị, vẻ đẹp của văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tăng cường sức mạnh mềm, nâng cao vị thế đất nước” [2].
Như vậy, Việt Nam và Nhật Bản luôn nhận thức rõ tầm quan trọng ngoại giao văn hóa trong quan hệ với các nước và đều có những chính sách cụ thể để phát huy sức mạnh văn hóa dân tộc, quảng bá “sức mạnh mềm văn hóa” để đưa hình ảnh quốc gia ra thế giới, qua đó khẳng định các giá trị văn hóa đó sẽ có ích cho các nước đối tác.
2. NỘI DUNG
2.1. Ngoại giao văn hóa – cầu nối phát triển quan hệ Việt - Nhật từ “Đối tác Tin cậy, Ổn định lâu dài” đến “Đối tác Chiến lược Sâu rộng”
Nửa thế kỷ qua, quan hệ hữu nghị, hợp tác Việt - Nhật phát triển toàn diện, sâu rộng, để lại nhiều thành quả ấn tượng trên tất cả lĩnh vực. Theo Tổng Cục Thống kê, đến cuối năm 2022, Nhật Bản là nhà đầu tư kinh tế quan trọng hàng đầu, nhà tài trợ ODA lớn nhất, nhà hợp tác lao động đứng thứ 2, nhà đầu tư FDI lớn thứ 3, nhà hợp tác du lịch lớn thứ 3, nhà thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam. Hiện, hai nước đang hợp tác chặt chẽ và hiệu quả trên nhiều lĩnh vực then chốt như cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao… [10]. Một trong những yếu tố tạo nên sự thành công này là chiến lược ngoại giao văn hóa đúng đắn, phù hợp. Điều này không chỉ góp phần làm sâu sắc hơn sự hiểu biết và tình cảm hữu nghị giữa nhân dân hai nước, đưa hai nền văn hóa đến gần nhau hơn, còn tác động tích cực đến sự hợp tác phát triển trên các lĩnh vực khác, góp phần hiệu quả trong việc nâng cấp quan hệ Việt - Nhật.
Cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa được chính phủ hai nước chú trọng phát triển cả về nội dung lẫn hình thức. Mục tiêu và cách thức hoạt động có khác biệt nhưng đều tập trung ở ba phương thức chính là trao đổi giáo dục và đào tạo, trao đổi văn hóa, nghệ thuật và hợp tác phát triển du lịch, thể thao.
2.1.1. Các chương trình trao đổi giáo dục và đào tạo
Thời gian qua, chính phủ hai nước đã ký kết nhiều văn kiện quan trọng về giáo dục và đào tạo như: Bản ghi nhớ việc Nhật Bản giúp Việt Nam đào tạo 1.000 tiến sĩ giai đoạn 2008-2020 (3/2008); Thỏa thuận hợp tác giữa các trường đại học (9/2011); Biên bản ghi nhớ hợp tác khoa học (6/2012); Bản ghi nhớ hợp tác đào tạo nguồn nhân lực (8/2013); Chương trình Hợp tác Chiến lược về giáo dục và đào tạo (3/2014); Thỏa thuận khung về giảng dạy tiếng Nhật ở trường phổ thông Việt Nam (1/2016); Biên bản Hợp tác kỹ thuật về giáo dục nghề nghiệp (7/2019); Biên bản ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo (5/2022); Bản ghi nhớ Chương trình phái cử - tiếp nhận thực tập sinh kỹ năng Việt Nam sang thực tập kỹ thuật tại Nhật Bản (6/2022)… Các chương trình trao đổi giáo dục và đào tạo mang lại cơ hội học tập, nghiên cứu cho sinh viên hai nước như: Chương trình JENESYS 2.0, JUNIOR, SSEAYP, G30, STATREPS; Học bổng MEXT, Đề án 322, 911; Quỹ Hỗ trợ du lịch học tập và một số học bổng do các doanh nghiệp Nhật Bản cấp. Đặc biệt, Quỹ Học bổng Phát triển Nguồn nhân lực Việt Nam (JDS) là chương trình lớn nhất của đất nước Hoa Anh Đào dành cho công chức, viên chức Việt Nam. Từ năm 2000-2020, Chương trình đã tài trợ 751 suất học bổng, bình quân mỗi năm trao tặng 45 suất học bổng thạc sĩ, 5 suất học bổng tiến sĩ. Trong giai đoạn 2020-2027, Nhật Bản tiếp tục viện trợ không hoàn lại 745 triệu Yên cho JDS [5].
Tính đến tháng 6/2022, có khoảng 23.000 công dân Nhật Bản sinh sống, học tập và làm việc tại Việt Nam; trong khi đó, theo Tổ chức Hỗ trợ Sinh viên Nhật Bản, số du học sinh Việt Nam tại Nhật là 51.000 người, cùng với lực lượng trí thức trẻ, doanh nhân khởi nghiệp và cộng đồng người Việt tại Nhật đã đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, còn là nguồn tài sản quý, cầu nối vun đắp quan hệ Việt – Nhật.
Hợp tác về khoa học - công nghệ phát triển mạnh khi Hiệp định Chính phủ về hợp tác khoa học và công nghệ được ký (21/8/2006), từ đó nhiều vấn đề khoa học và công nghệ mà hai nước quan tâm đã từng bước được giải quyết, góp phần nâng cao năng lực và tiềm lực khoa học công nghệ của Việt Nam, mà thành công nổi bật nhất là việc thành lập Mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam – Nhật Bản [3].
Trong bối cảnh hiện nay, hợp tác Việt - Nhật trong giáo dục và đào tạo sẽ ngày càng được đẩy mạnh, các chương trình đã góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội đất nước, còn tạo cơ hội cho hai dân tộc giao lưu văn hóa để hiểu biết nhau hơn, là cầu nối quan trọng vun đắp phát triển quan hệ Việt – Nhật trong nhiều thập niên tới.
2.1.2. Các chương trình trao đổi văn hóa, nghệ thuật
Từ năm 2000 trở đi, quan hệ văn hóa Việt - Nhật có bước tiến lớn khi các hoạt động giao lưu nở rộ dưới nhiều hình thức, như hợp tác trên lĩnh vực khảo cổ học, trùng tu, phục chế di sản văn hóa; biểu diễn nghệ thuật và lễ hội; hội chợ văn hóa; tuần lễ phim; văn hóa ẩm thực… Điển hình, hai nước đã phối hợp tổ chức định kỳ Lễ hội Việt Nam, Lễ hội Nhật Bản, Ngày hội Văn hóa, Gia đình hữu nghị, Giao lưu văn hóa và thương mại…; hay các chương trình biểu diễn nghệ thuật; Tuần lễ phim Konshin (2013); Chương trình “Biểu diễn nhạc cụ dân gian và múa sư tử truyền thống Nhật Bản” (2016); Triển lãm ảnh giới thiệu về đất nước, con người, các thắng cảnh du lịch, di sản văn hóa của Việt Nam; Chương trình Đại nhạc hội Việt – Nhật (2008, 2010, 2013, 2018, 2019); Chương trình biểu diễn nghệ thuật truyền thống Sambaso–biểu diễn Kyogen (2023); Triển lãm Búp bê truyền thống Nhật Bản (2013, 2023), “Hòa nhạc Toyota và Đêm nhạc cổ điển Toyota” và một số cuộc thi Hùng biện tiếng Nhật, “Miss Áo dài”…; các dự án hợp tác nghệ thuật như Dự án phim truyền hình “Người cộng sự”, “Dưới bầu trời xa cách”…; kịch sân khấu “Những chân trời có người bay” (2013), “Công nữ Anio” (2023)… Trong đó, vở kịch “Vịt trời trúng độc” là Dự án hợp tác của Nhà hát Tuổi trẻ Việt Nam và Nhà hát Rối dây Edo – Yukiza, Nhật Bản đã gây tiếng vang lớn tại Liên hoan Sân khấu Quốc tế Sibiu (Rumani) vào tháng 6/2016.
Tất cả là những cầu nối để văn hóa hai quốc gia đi vào đời sống, để công chúng cảm nhận và thấu hiểu hơn về một Nhật Bản trong lòng Việt Nam và một Việt Nam trong lòng người Nhật, thắt đượm thêm nhịp cầu hữu nghị giữa hai quốc gia – dân tộc.
2.1.3. Các chương trình hợp tác du lịch, thể dục thể thao
Hợp tác phát triển du lịch được thúc đẩy mạnh mẽ sau khi hai nước ra Tuyên bố chung và thành lập Ủy ban Hợp tác Du lịch Việt Nam – Nhật Bản (2005). Đến nay, hai nước đã triển khai hiệu quả nhiều nội dung, đặc biệt trong các lĩnh vực trao đổi khách, phát triển du lịch bền vững, bảo vệ đô thị lịch sử và văn hóa, phát triển nguồn nhân lực du lịch, quảng bá xúc tiến du lịch, cải thiện môi trường du lịch, chính sách tạo thuận lợi đi lại, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch. Theo Tổng Cục Du lịch, vài năm gần đây, Nhật Bản đứng trong top 10 thị trường khách du lịch châu Á của Việt Nam. Giai đoạn 2015-2019, lượng khách Nhật đến Việt Nam tăng bình quân 9,1%/năm; riêng 6 tháng đầu năm 2023, có 241.087 lượt khách Nhật Bản đến Việt Nam. Ở chiều ngược lại, Nhật Bản dần trở thành điểm đến rất được yêu thích của du khách Việt, xếp thứ tư trong nhóm thị trường khách du lịch trọng điểm mà Nhật Bản hướng đến.
Tháng 9/2018, Biên bản ghi nhớ hợp tác toàn diện trong lĩnh vực thể dục thể thao Việt Nam – Nhật Bản được ký kết, gần nhất là ngày 28/9/2022 đã diễn ra lễ ký kết hợp tác giữa Tổng Cục Thể dục Thể thao và Hội đồng Thể thao Nhật Bản trong lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ Thể dục Thể thao; từ đây, thể thao Việt Nam sẽ nhận được sự giúp đỡ từ phía Nhật Bản về nhiều mặt như: tập huấn dành cho vận động viên đỉnh cao; trao đổi kinh nghiệm quản lý hành chính, pháp lý và điều hành các giải đấu chuyên nghiệp; trao đổi kiến thức khoa học và công nghệ trong y học thể thao, phương pháp luận phục hồi chức năng; phát triển thể thao cộng đồng, thể thao học đường…
Nhiều chương trình, dự án thể dục thể thao được xây dựng và phối hợp tổ chức nhiều hoạt động thiết thực nhằm tạo điều kiện cho thanh niên Việt – Nhật tiếp xúc, giao lưu như Chương trình Giao lưu Thanh niên Đông Á – Nhật Bản, Đại hội Thể thao châu Á 2019, Thế vận hội Olympic/Paralympic Tokyo 2020, “Sport for Tomorrow”… Bên cạnh đó, sự giao lưu giữa công ty tư nhân của Nhật Bản với các chính quyền địa phương của Việt Nam được mở rộng. Các doanh nghiệp Nhật Bản đã ký kết hợp đồng tài trợ các đội tuyển chuyên nghiệp hay đội tuyển quốc gia của Việt Nam như: Công ty Suzuki, Công ty Yamaha tài trợ cho đội tuyển quốc gia; Công ty Toyota tài trợ cho Giải bóng đá chuyên nghiệp V-league… [11]. Với những kỷ niệm tuyệt vời, những trải nghiệm hấp dẫn trong những chuyến đi và nhiều hoạt động ý nghĩa, thiết thực, chương trình hợp tác phát triển du lịch và giao lưu thể dục thể thao đã thành công trong việc xây dựng tình bạn giữa thanh niên Nhật Bản – Việt Nam nói riêng và nhân dân hai nước nói chung, qua đó đánh dấu sự gắn bó, đoàn kết, hữu nghị giữa hai quốc gia càng thêm bền chặt.
Ngoài ra, quan hệ giữa các địa phương hai nước cũng là điểm sáng với hơn 70 văn bản hợp tác được ký kết và thực hiện hiệu quả như tỉnh Osaka hỗ trợ Thành phố Hồ Chí Minh triển khai thí điểm Dự án về nước sạch, môi trường; tỉnh Fukuoka hỗ trợ Thành phố Hà Nội trong việc xử lý chất thải rác ô nhiễm nguồn nước; thành phố Kitakyushu hỗ trợ thành phố Hải Phòng trong lĩnh vực quy hoạch đô thị, hợp tác phát triển cảng biển… thật sự là cầu nối quan trọng thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân hai nước.
2.2. Một vài nhận xét
Ngoại giao văn hóa Việt - Nhật gắn liền với lịch sử quan hệ hợp tác của hai nước nên có lúc thăng, lúc trầm. Nhưng, từ khi mối quan hệ được nâng lên “Đối tác Tin cậy, Ổn định lâu dài” đến nay, các chương trình trao đổi giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, thể thao và du lịch phát triển mạnh mẽ dưới nhiều hình thức như: Hợp tác giữa hai chính phủ, giữa các trường đại học, giữa các tổ chức và giữa các cá nhân, tạo ra nhiều dấu ấn sâu đậm trong lòng nhân dân hai nước, từ đó những tình cảm chân thật, tốt đẹp dần được hình thành. Các cơ quan đại diện Việt Nam tại Nhật Bản đã chú trọng gắn nội dung ngoại giao văn hóa ở diện rộng về địa bàn, đa dạng về chủ thể, phong phú về nội dung và hình thức hoạt động. Ngoài ra, sự phát triển mạnh mẽ của ngành Việt Nam học và Nhật Bản học trong những năm gần đây đã góp phần tăng cường sự hợp tác, làm sâu sắc thêm tình hữu nghị, sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa hai chính phủ và nhân dân hai nước, đóng góp vào việc nâng cao “sức mạnh mềm” quốc gia.
Trong quan hệ Việt - Nhật, ngoại giao văn hóa đóng vai trò người mở đường cho ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, tạo “thế kiềng ba chân vững chãi” cho các hội nghị cấp cao, chương trình nghị sự, chuyến viếng thăm của lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Nhật Bản diễn ra thường xuyên, đan xen với nhiều thỏa thuận hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư được ký kết, và hơn tất cả là ủng hộ các quan điểm, đường lối, chính sách của Việt Nam. Trên thực tế, Việt Nam sử dụng khá thành công nguồn tài trợ của Nhật Bản để đào tạo nhân lực, quảng bá hình ảnh đất nước, con người và văn hóa dân tộc, giải quyết các vấn đề xã hội và phát triển đất nước. Những kết quả đạt được là rất quan trọng mà không phải mối quan hệ nào cũng đạt được, góp phần tạo nên thành công của công tác đối ngoại nói chung, quan hệ hợp tác Việt – Nhật nói riêng.
Thông qua ngoại giao, các hoạt động giao lưu văn hóa trở thành chất xúc tác đưa thương hiệu du lịch và sản phẩm Việt đến đất nước Mặt trời mọc; giao lưu nghệ thuật tạo cơ hội, điều kiện cho những người làm công tác nghệ thuật và công chúng được tiếp thu tinh hoa văn hóa, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Trong khi đó, hợp tác về giáo dục và đào tạo là nét nổi bật trong ngoại giao văn hóa Việt Nam – Nhật Bản, trở thành nền tảng vững chắc để nâng hiệu quả hợp tác ở các lĩnh vực khác. Đặc biệt, trong bối cảnh giáo dục Việt Nam đang thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW (ngày 4/11/2013) và nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, sự hợp tác hỗ trợ của Nhật Bản trong giáo dục và đào tạo là nguồn vốn quý giá đã đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cho Việt Nam. Minh chứng điển hình tiêu biểu cho tình hữu nghị, hợp tác Việt – Nhật trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo là sự thành lập trường Đại học Việt Nhật Furuta Motoo (7/2014), được tổ chức theo mô hình đại học tiên tiến của Nhật Bản, “là nơi cung cấp nguồn nhân tài tinh hoa hàng đầu của Việt Nam hướng đến Nhật Bản”, GS. Furuta Motoo – Hiệu trưởng trường Đại học Việt Nhật, Đại học Quốc gia Hà Nội chia sẻ.
Với tính mềm dẻo, linh hoạt và chiến lược đúng đắn, ngoại giao văn hóa đã trở thành nền tảng để thúc đẩy quan hệ hữu nghị, giúp nhân dân Việt Nam – Nhật Bản hiểu nhau và gắn bó hơn. Từ đó, phát huy vai trò “sức mạnh mềm văn hóa” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ triển khai các mục tiêu đối ngoại trong quan hệ với Nhật Bản. Qua đó, gửi tới bạn bè quốc tế thông điệp về một nước Việt Nam hòa bình, ổn định, thân thiện, cởi mở, thành công, phát triển nhanh, bền vững và ngày càng có trách nhiệm với các vấn đề quốc tế. Tuy nhiên, do khác biệt thể chế chính trị, tư tưởng và trình độ phát triển nên phạm vi, hình thức và nội dung hoạt động ngoại giao văn hóa có khác nhau. Về phía Nhật Bản, đầu mối chính điều hành các chương trình là Đại sứ quán Nhật Bản, Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam và đã thu hút được nhiều NGO, công chúng Nhật tham gia trong các chương trình, vì vậy hoạt động rất đa dạng, bài bản và có chiều sâu. Ở Việt Nam, ngoại giao văn hóa vẫn chỉ giới hạn trong Đảng, chính phủ, các cơ quan trực thuộc mà không có sự tham gia của tổ chức tư nhân hay các tổ chức phi chính phủ và đông đảo quần chúng nhân dân. Nội dung và hình thức hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu cụ thể của từng mục tiêu và địa phương. Sản phẩm văn hóa Việt được giới thiệu ở Nhật Bản ít về số lượng và hạn chế về chất lượng, chưa tạo ra các chương trình đổi mới để thu hút sự chú ý rộng hơn của công chúng Nhật Bản. Các tuần lễ văn hóa, triển lãm hoặc trao đổi giữa hai nước thường chỉ diễn ra ở một số địa phương nhất định nên hiệu quả bị hạn chế và thậm chí lãng phí do chưa thu hút được nhiều người dân tham gia. Cơ sở vật chất và thiết bị kỹ thuật phục vụ hoạt động giao lưu văn hóa, nghệ thuật bị lỗi thời. Sự phối hợp giữa các nhân tố tham gia các hoạt động chưa cao và không chặt chẽ.
2.3. Các kiến nghị
Bà Kamitani Naoko, đại diện Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam nhận định: “Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản hiện đang vô cùng tốt đẹp, phát triển sâu rộng trên mọi lĩnh vực chính trị, ngoại giao, an ninh, văn hóa, kinh tế; có sự tin cậy từ mọi cấp. Những thành tựu đó có sự đóng góp của các hoạt giao lưu văn hóa, đối ngoại nhân dân, tình hữu nghị sâu sắc giữa các lãnh đạo, nhân dân Việt Nam và Nhật Bản” [9]. Bước sang thập niên 30 của thế kỷ XXI, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những biến chuyển phức tạp, khó lường, quan hệ Việt – Nhật có những vận hội phát triển mới đầy triển vọng xen lẫn khó khăn, thách thức phải đối mặt. Để quan hệ đối tác này “hướng tới tương lai, vươn tầm thế giới” trong thời gian tới, ngoại giao văn hóa cần:
Thứ nhất, đổi mới mạnh mẽ từ tư duy, nội dung, công cụ truyền bá đến cách thức tổ chức, triển khai để hoạt động giao lưu đi vào chiều sâu, có trọng tâm, trọng điểm nhằm làm tốt vai trò “nền tảng tinh thần, động lực, mục tiêu thúc đẩy phát triển xã hội”, là “cầu nối” xúc tiến hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch…
Đổi mới sáng tạo nội dung, hình thức các hoạt động ngoại giao văn hóa thích ứng tình hình mới, như xây dựng hệ thống thông tin cơ sở triển khai truyền thông quảng bá văn hóa đối ngoại gắn với các xu thế lớn của thời đại như phát triển xanh, bảo vệ môi trường, chuyển đổi số…; xây dựng ấn phẩm, phóng sự, phim tài liệu quảng bá bản sắc văn hóa, danh lam thắng cảnh, đặc sản, làng nghề, lễ hội…, phát sóng chương trình giáo dục văn hóa truyền thống đặc sắc, đặc biệt là thông tin về giá trị truyền thống và giá trị thời đại của văn hóa trên phương tiện truyền thông đại chúng, lựa chọn các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tiêu biểu, đặc sắc để dịch sang tiếng Nhật phổ biến đến các đối tác và công chúng Nhật Bản.
Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu của Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và phương tiện truyền thông đa phương tiện mới, đồng thời hợp tác có chọn lọc với các cơ quan thông tấn, truyền thông Nhật Bản để thông tin về Việt Nam được đến với công chúng Nhật một cách nhanh nhất và chính xác nhất, nhằm quảng bá giá trị văn hóa, tiềm năng và thế mạnh trong hợp tác, đầu tư với các địa phương Nhật Bản.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế, chính sách ngoại giao văn hóa, chú trọng xây dựng một chiến lược ngoại giao văn hóa lâu dài.
Thực tế cho thấy, cơ chế, chính sách ngoại giao văn hóa phải thường xuyên bổ sung, cập nhật, hoàn thiện qua từng thời kỳ. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay và thời gian sắp tới có nhiều biến chuyển, nên cần điều chỉnh các quy định không còn phù hợp, bổ sung các quy định còn thiếu. Do đó, Việt Nam cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về ngoại giao văn hóa một cách toàn diện, đồng bộ trên cơ sở phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và pháp luật Nhà nước, phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước và với những cam kết quốc tế. Cụ thể:
Điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện cơ sở lý luận về ngoại giao công chúng; ngoại giao số; vai trò truyền thông đại chúng, truyền thông mới và văn hóa số; vai trò doanh nghiệp và người dân trong công tác ngoại giao và giao lưu văn hóa; Quy chế tổ chức Tuần/Ngày Việt Nam ở nước ngoài; các quy định liên quan đến quảng bá hình ảnh Việt Nam trên môi trường mạng...
Nghiên cứu, xây dựng một chiến lược ngoại giao văn hóa lâu dài và một bộ tiêu chí khung làm chuẩn cho việc đánh giá chính xác, hiệu quả công tác ngoại giao văn hóa và hoạt động quảng bá văn hóa ở các cấp độ.
Xây dựng cơ chế thống nhất phối hợp, quản lý công tác ngoại giao văn hóa, cũng như các hoạt động giao lưu văn hóa do cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tổ chức với sự tham gia, phối hợp giữa ba cơ quan là Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Thông tin - Truyền thông, thay thế cho cách quản lý chồng chéo hiện nay giữa Bộ Ngoại giao (cụ thể: Vụ Chính sách đối ngoại, Vụ Ngoại giao văn hóa và UNESCO, Vụ Tổng hợp kinh tế, Vụ các Tổ chức quốc tế, Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài) và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Tổng cục Du lịch, Các doanh nghiệp, Cục Nghệ thuật biểu diễn, Trung tâm triển lãm Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, Khối các đơn vị Nghệ thuật biểu diễn và Điện ảnh, Cục hợp tác Quốc tế, Vụ Văn hóa dân tộc và Cục Di sản văn hóa), Bộ Thông tin và Truyền thông (Cục Báo chí, Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử, Cục Thông tin đối ngoại), Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam (Ban Á – Phi, Viện Nghiên cứu quốc tế và Đối ngoại nhân dân).
Thứ ba, mở rộng cho sự tham gia của các chủ thể, kết hợp xây dựng nguồn nhân lực chất lượng và chuyên sâu.
Quyết định số 208/QĐ-TTg đã xác định: Ngoại giao văn hóa là “hoạt động và nhiệm vụ chung của các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các địa phương, mọi người dân Việt Nam và kiều bào ta ở nước ngoài”, vì thế không nên bó hẹp trong phạm vi các cơ quan nhà nước mà cần có sự phối hợp tham gia của các chủ thể phi nhà nước và các chủ thể khác như doanh nghiệp, giới học giả, nhà nghiên cứu, quần chúng nhân dân, nhất là giới trẻ, thậm chí có thể mời các chuyên gia nước ngoài trực tiếp tham gia đào tạo và trao đổi học thuật, kinh nghiệm, tư vấn những vấn đề liên quan đến ngoại giao văn hóa, để hoạt động này đạt hiệu quả cao nhất. Ngoại giao văn hóa sẽ thực sự hiệu quả và lan tỏa nếu có các chủ thể khác cùng tham gia, mang lại lợi ích cho cộng đồng, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm. Cụ thể: Tăng cường cơ chế trao đổi, tham vấn ý kiến cũng như khuyến khích sự tham gia chủ động, tích cực của các địa phương, doanh nghiệp và người dân trong quá trình xây dựng cơ chế, chính sách và triển khai thực hiện hiệu quả hoạt động ngoại giao và giao lưu văn hóa Việt – Nhật, phục vụ lợi ích của cộng đồng và quốc gia, dân tộc. Nâng cao vai trò các đoàn thể, tổ chức văn hóa để nắm bắt, giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động giao lưu văn hóa Việt – Nhật. Đồng thời, định hướng cho các doanh nghiệp ngành công nghiệp văn hóa nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phầm đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn theo thị trường Nhật Bản; Đồng hành cùng các doanh nghiệp, người dân tìm kiếm những cách thức tổ chức, mô hình giao lưu văn hóa mang lại hiệu quả cao nhất; đồng thời, phát huy lợi thế mạng lưới các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam tại Nhật Bản để đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ hoạt động ngoại giao công chúng. Trong đó, người Việt Nam ở Nhật Bản là những “Đại sứ văn hóa” trong việc quảng bá văn hóa Việt Nam ở sở tại.
Tiếp tục kiện toàn, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp bộ, ban, ngành và cấp phòng theo hướng tinh gọn, hiệu quả, chuyên nghiệp thông qua việc chuẩn hóa và bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp. Đồng thời, chú trọng thu hút nhân tài; đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực có hiểu biết đúng, hiểu sâu về công tác ngoại giao cũng như sự am hiểu sâu sắc về lịch sử, văn hóa của Việt Nam và Nhật Bản, có bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng và có kỹ năng làm việc hiện dại, chuyên nghiệp, nhất là các kỹ năng mềm; chuẩn hóa chương trình đào tạo ngành Quan hệ quốc tế, ngành Ngoại giao và các chuyên ngành thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. “Cần có các kế hoạch cụ thể về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngoại giao văn hóa, hướng tới mỗi cán bộ ngoại giao văn hóa không chỉ là những nhà ngoại giao chuyên nghiệp, hiện đại, mà còn là những cán bộ am hiểu sâu sắc về văn hóa Việt Nam và thế giới”, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hà Kim Ngọc nhấn mạnh.
Thứ tư, hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ công tác ngoại giao cũng như hoạt động giao lưu văn hóa Việt – Nhật
Bảo đảm thực hiện quy hoạch tổng thể, phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, cơ sở vật chất kỹ thuật, trang bị phương tiện chuyên dùng phục vụ các hoạt động giao lưu văn hóa, nghệ thuật trong công tác ngoại giao với Nhật Bản. Tiếp tục triển khai xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động các Trung tâm văn hóa Việt Nam và Trung tâm dạy tiếng Việt tại Nhật Bản. Đầu tư một số công trình văn hóa, nghệ thuật có quy mô và giàu tính nghệ thuật làm điểm nhấn, gắn với bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của nhân dân hai nước Việt Nam – Nhật Bản.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục đổi mới việc tổ chức hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa trong cả nước; tăng cường công tác kiểm tra thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở giai đoạn 2013-2020, định hướng đến năm 2030, nhằm đảm bảo từng chương trình giao lưu được triển khai đạt kết quả tốt nhất.
3. Kết luận
Nhìn lại chặng đường phát triển trong 50 năm qua, chúng ta có thể khẳng định tình đoàn kết, hữu nghị, hợp tác toàn diện Việt – Nhật đã và đang tiếp tục được duy trì, củng cố, đổi mới và đi vào chiều sâu chính bởi các mối liên kết văn hóa và sự kết nối nhân dân. Mối quan hệ ấy không chỉ mang tính lịch sử, còn là quan hệ văn hóa và kết nối con người. Chính tình cảm chân thành, tin cậy giữa hai dân tộc đã khiến quan hệ song phương trở nên bền chặt hơn. Trong lĩnh vực hợp tác kinh tế, Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Song, hợp tác văn hóa, nghệ thuật, du lịch và thể thao trong thời gian qua chưa thực sự được khai thác hết tiềm năng và thế mạnh của nhau. Do vậy, hai nước cần tận dụng tối đa nguồn lực để thúc đẩy hơn nữa ngoại giao văn hóa, góp phần thắt chặt quan hệ hợp tác thông qua việc xây dựng chiến lược chung, trong đó việc cụ thể hóa các nội dung, công cụ thực hiện; tăng cường trao đổi thông tin đối ngoại trên cơ sở phối hợp tổ chức các sự kiện, diễn đàn về ngoại giao văn hóa; tăng cường sự hiện diện của các cơ quan truyền thông ở hai nước để truyền bá, nâng cao hình ảnh đất nước, con người Việt Nam – Nhật Bản đến với người dân mỗi nước và bạn bè quốc tế.
“Chúng ta đến với nhau và cảm nhận được sự tin cậy, chân thành, đây là điều có ý nghĩa rất quyết định để hợp tác [Việt – Nhật] thành công”, Thủ tướng Phạm Minh Chính chia sẻ.
Tài liệu tham khảo
[1] Chỉ thị số 4252/2008/CT-BNG, ngày 23/12/2008 của Bộ Ngoại giao về việc “Tăng cường công tác Ngoại giao Văn hóa tạo động lực mới cho Ngoại giao Việt Nam trong tiến trình Hội nhập quốc tế”.
[2] Quyết định số 2013/QĐ-TTg, ngày 30/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc “Phê duyệt Chiến lược Ngoại giao văn hóa đến năm 2030”.
[3] Cục Đầu tư nước ngoài (2022), Việt Nam – Nhật Bản thúc đẩy đổi mới sáng tạo, truy cập ngày 25/5/2023, https://fia.mpi.gov.vn/Detail/CatID/b193c63d-bb97-4ac0-a16c-f6565ff3a0d4/NewsID/1dc03b20-e784-4dca-adac-6ad201726072/MenuID/081f626c-0ae5-490f-8090-ffd164d13354.
[4] Cục Hợp tác quốc tế (2019), Hợp tác giáo dục Việt Nam – Nhật Bản: Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, truy cập ngày 20/6/2023, https://icd.edu.vn/372/hop-tac-giao-duc-viet-nam--nhat-ban-tang-cuong-dao-tao-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao.html/BPF/vi-VN/CMS_Cat/Thong-Tin-Hop-Tac-Quoc-Te/CMS_Detail/1712.
[5] Kiều Giang (2022), Khởi động Chương trình Học bổng Phát triển Nguồn nhân lực JDS, truy cập ngày 20/6/2023, https://dangcongsan.vn/giao-duc/khoi-dong-chuong-trinh-hoc-bong-phat-trien-nguon-nhan-luc-jds-601598.html.
[6] Nguyễn Thái Giao Thủy (2020), Ngoại giao văn hóa trong chính sách đối ngoại Việt Nam, Tạp chí Khoa học trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tập 17, số 4, tr. 646 - 655.
[7] Nguyễn Võ Huyền Dung (2022), Quá trình triển khai sức mạnh mềm của Nhật Bản tại Đông Nam Á (2001-2021), Luận án Tiến sĩ Quan hệ quốc tế, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
[8] Nye, Joseph (1990), Bound to lead: The changing nature of American power, New York: Basic books.
[9] Quỳnh Dương (2022), Tăng cường giao lưu kinh tế, văn hóa và xã hội giữa Việt Nam – Nhật Bản, truy cập ngày 20/6/2023, https://hanoimoi.vn/tang-cuong-giao-luu-kinh-te-van-hoa-va-xa-hoi-giua-viet-nam-nhat-ban-448201.html.
[10] Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan (2022), (Interactive) Quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản, truy cập ngày 29/6/2023, https://infographics.vn/interactive-quan-he-thuong-mai-viet-nam-nhat-ban/105213.vna.
[11] Umeda Kunio (2018), Tình hình quan hệ Nhật Bản – Việt Nam hiện nay, trường Đại học Ngoại thương.
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia "Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trong thời đại mới" được tổ chức tại Đại học Sư phạm và Đại học Khoa học Huế, tháng 11/2023