Youtube Instagram Phản hồi E-office Lịch công tác
E-office Lịch công tác
       
  13/04/2023 08:35        

Nâng cao hiệu quả quản lý công thông qua việc nhận diện và giải quyết xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ ở Việt Nam hiện nay

Vấn đề xung đột lợi ích trong thực thi công vụ là nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến tình trạng tham nhũng. Vì vậy, hiện nay có nhiều quốc gia đang quan tâm đến vấn đề này. Trên cơ sở làm rõ thêm việc nhận diện và giải quyết xung đột lợi ích, bài viết phân tích, đánh giá thực trạng xung đột lợi ích trong thực thi công vụ ở Việt Nam hiện nay, từ đó, đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết hài hòa các xung đột lợi ích, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý công tại Việt Nam.

Xung đột lợi ích, nhận diện và giải quyết xung đột lợi ích 

Việt Nam, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã lần đầu tiên đề cập đến nội dung và giải thích thuật ngữ “xung đột lợi ích”, cụ thể “Xung đột lợi ích là tình huống mà trong đó lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn hoặc người thân thích của họ tác động hoặc sẽ tác động không đúng đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ”. Tuy nhiên, cách hiểu này để chỉ các chủ thể là cá nhân, người có chức vụ, quyền hạn. Vì vậy, khái niệm về xung đột lợi ích cần được hiểu một cách bao quát và trên nhiều đối tượng hơn như sau: Xung đột lợi ích trong thực thi công vụ là tình huống phát sinh khi cán bộ, công chức bị chi phối, tác động bởi lợi ích cá nhân hoặc lợi ích của người thân thích của họ dẫn đến việc cán bộ, công chức có thể làm không đúng chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, bổn phận và nghĩa vụ được giao gây tổn hại tới lợi ích công, giá trị công để tư lợi.

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng đã xác định 09 trường hợp là xung đột lợi ích tại Điều 29. Bên cạnh đó, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định những việc cán bộ, công chức không được làm: “Ngoài những việc không được làm quy định tại Điều 18 và Điều 19 của Luật này, cán bộ, công chức còn không được làm những việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những việc khác theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền”. Ngày 25/10/2021, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm, trong đó một số quy định thậm chí có ý nghĩa cấm xảy ra xung đột lợi ích trong quan hệ công vụ, như tại Điều 15: “Tặng, nhận quà dưới mọi hình thức để tác động đến tổ chức, người có trách nhiệm dẫn đến việc quyết định sai, có lợi riêng cho bản thân hoặc cá nhân, tổ chức doanh nghiệp”, Điều 17 cấm “Can thiệp, tác động để vợ (chồng), con, bố, mẹ, anh, chị, em ruột mình, bên vợ (chồng), bản thân và người khác đi du lịch, học tập, chữa bệnh bằng nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến ngành, lĩnh vực theo dõi, quản lý”…

Nhìn chung, các quy định pháp luật liên quan đối với hoạt động công vụ trong bối cảnh chuyển đổi số tại các cơ quan nhà nước Việt Nam là cơ sở pháp lý góp phần quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng của Việt Nam hiện nay. Pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích cũng có các quy định liên quan để ngăn chặn, kiểm soát các tình huống xung đột lợi ích nhằm phòng ngừa tham nhũng. Tuy nhiên, tình huống xung đột lợi ích có xu hướng ngày càng đa dạng, biến đổi không ngừng, do đó, pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích đối với hoạt động công vụ cũng cần có những thay đổi để kịp thời điều chỉnh các tình huống này. Đặc biệt, hoạt động này được thực hiện trong bối cảnh chuyển đổi số tại các cơ quan nhà nước Việt Nam hiện nay. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích đối với hoạt động công vụ trong bối cảnh chuyển đổi số tại các cơ quan hành chính nhà nước hiện nay đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, đồng thời phải được thực hiện dựa trên những tiêu chí và yêu cầu nhất định. 

Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay và với sự đa dạng hóa các thành phần kinh tế thì việc xác định người có chức vụ, quyền hạn xung đột lợi ích khi có dấu hiệu rõ ràng người đó thuộc hoặc sẽ thuộc một trong 09 trường hợp đã nêu trong Nghị định không phải là điều đơn giản, bởi lợi ích ngầm được cài cắm trong các trường hợp này rất tinh vi, rất khó phát hiện. Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2021 (PCI 2021) do Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) cho thấy: “Kết quả điều tra PCI-FDI có thể gợi ý những lĩnh vực cần tập trung đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Cụ thể, những lĩnh vực phát sinh chi phí không chính thức phổ biến nhất với các doanh nghiệp FDI là trong việc thực hiện thủ tục xuất nhập khẩu (38,9%), thanh, kiểm tra (25,4%). Có 18,2% doanh nghiệp FDI không muốn đưa tranh chấp ra tòa án giải quyết do lo ngại về tình trạng “chạy án”, tăng nhẹ so với năm 2020. Rất đáng lưu ý, có tới 21,1% doanh nghiệp FDI phải trả chi phí không chính thức khi thực hiện thủ tục đất đai, tăng mạnh so với con số 10,3% của năm 2020. Con số này nhất quán với sự gia tăng tỷ lệ doanh nghiệp phản ánh gặp phiền hà trong thực hiện thủ tục hành chính đất đai đã trình bày ở mục 2.4. Một điểm quan trọng là tỷ lệ doanh nghiệp cho biết công việc được giải quyết như mong đợi sau khi chi trả chi phí không chính thức lên tới 60,4%, cho thấy khả năng đoán trước được kết quả công việc khi có “lót tay” tăng lên đáng kể. Lợi ích của việc này là doanh nghiệp có thể dự đoán khoản chi phí phải bỏ ra để chi trả chi phí không chính thức và coi đó là một khoản thuế, song hệ quả của nó sẽ là việc chi trả chi phí không chính thức ngày càng có hệ thống và có tính chất giao dịch.”.

Mặc dù pháp luật về quản lý xung đột lợi ích, phòng, chống tham nhũng đã bước đầu bao quát được nhiều nội dung, khía cạnh trong nhận diện và phòng ngừa xung đột lợi ích nhưng từ năm 2018 mới chính thức pháp lý hóa khái niệm về xung đột lợi ích trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, sau đó, Nghị định số 59/2019/NĐ-CP nhận diện 09 nhóm biểu hiện của xung đột lợi ích; Nghị định số 130/2020/NĐ-CP về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức và các văn bản liên quan,… mới bắt đầu được triển khai thực hiện. Các chế tài đối với hành vi vi phạm quy định về kiểm soát xung đột lợi ích trong thực thi công vụ chưa rõ ràng, chủ yếu dẫn chiếu đến các quy định chung về xử lý cán bộ, công chức. Trách nhiệm thực thi các quy định về kiểm soát xung đột lợi ích trong thực thi công vụ được giao cho nhiều cơ quan khác nhau, thiếu một cơ quan đầu mối chuyên trách, trong khi thực tiễn vô cùng phong phú, đa dạng và không ngừng vận động, biến đổi.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc nhận diện và giải quyết xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ tại Việt Nam

Xung đột lợi ích luôn có thể xảy ra trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ được bắt nguồn từ các yếu tố thuận lợi của môi trường thực hiện nhiệm vụ, công vụ hoặc từ động cơ vụ lợi của chính người có chức vụ, quyền hạn nhằm mục đích chiếm đoạt những giá trị, lợi ích vật chất nhất định… Vì vậy, để phòng ngừa, ngăn chặn xung đột lợi ích khi thực thi nhiệm vụ, công vụ cần tập trung vào các giải pháp cụ thể nhằm triệt tiêu động cơ vụ lợi, nguyên nhân, điều kiện… tác động đến người có chức vụ, quyền hạn và quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ của họ. Cụ thể như sau:

Đầu tiên, cần nhận diện đúng các xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ. Đây là yêu cầu, đòi hỏi hết sức quan trọng để kịp thời phát hiện tham nhũng ngay từ trong nội bộ cơ quan, đơn vị và xử lý hiệu quả bằng những biện pháp đã được pháp luật quy định. Đây không chỉ là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mà còn là giải pháp hữu hiệu để bất kỳ người có chức vụ, quyền hạn nào cũng có thể tự kiểm soát được khả năng, mức độ, giới hạn trong quá trình sử dụng quyền lực đảm bảo tính liêm chính, hiệu quả của việc thực thi nhiệm vụ, công vụ.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý các hành vi xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ, thực thi nhiệm vụ gây ra hậu quả; quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ cho cơ quan đầu mối chuyên trách để để kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ, cơ quan này sẽ có trách nhiệm tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về xung đột lợi ích và kiểm soát xung đột lợi ích, hướng dẫn thực hiện pháp luật đồng thời thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn, giải đáp vướng mắc cho cán bộ, công chức, viên chức cách xử lý những tình huống cụ thể họ gặp phải trong quá trình thực thi công vụ, xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị xử lý và thực hiện quản lý trực tiếp các tình huống xung đột lợi ích xảy ra trong hoạt động công vụ; tổng kết thực tiễn thực hiện pháp luật, tham mưu hoạch định chính sách, pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ.

Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ là “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân; đồng thời, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc”. Trong đó, hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết xung đột lợi ích đối với hoạt động công vụ là nhiệm vụ nằm trong giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò lãnh đạo của Ðảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân góp phần nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động, năng lực kiến tạo, phát triển của Nhà nước.

Thứ ba,  đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tham gia vào hoạt động công vụ tuyệt đối tuân thủ những nguyên tắc trong thi hành công vụ được quy định tại Điều 3 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) không những có tính bắt buộc chấp hành mà còn phải chấp hành bằng hành động tích cực, chủ động nhằm đảm bảo sự liêm chính, trách nhiệm, đạo đức công vụ, hiệu lực, hiệu quả và tính hợp pháp của hoạt động công vụ cũng như các kết quả của hoạt động công vụ đó.

Thứ tư, tăng cường vai trò của người đứng đầu trong các cơ quan hành chính nhà nước, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phát huy tính tiền phong, gương mẫu trong việc thực thi công vụ; thực hiện các nhiệm vụ phải mạnh dạn, quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; góp phần lan tỏa tới toàn thể công chức, viên chức, xây dựng môi trường văn hóa công sở dân chủ, văn minh.
Thứ năm,  các cơ quan hành chính nhà nước cần tăng cường cơ chế bảo đảm thực thi. Ở Việt Nam, trong bối cảnh tinh giản biên chế và cải cách hành chính hiện nay, xu hướng là trao quyền cho cơ quan quản lý công chức việc đảm nhận thực thi chế tài. Điều này một mặt có lợi ích là tiết kiệm, đơn giản và có thể có hiệu quả cao trong trường hợp cơ quan coi trọng việc thực hành quy tắc đạo đức; tuy nhiên nhược điểm là thường đồng nhất vi phạm quy tắc ứng xử với nghĩa vụ công vụ và cơ quan hành chính sẽ có xu hướng “bỏ lọt” các hành vi vi phạm quy tắc ứng xử. Do đó, quy tắc ứng xử nên dành cho tổ chức giám sát đặc thù - mang tính chất hội nghề nghiệp, có thể lựa chọn những lĩnh vực nhạy cảm, nơi mà quy tắc ứng xử được đặc biệt đề cao như thanh tra, y tế, giáo dục, công an và cho phép lập ra cơ quan giám sát quy tắc ứng xử (trong nội bộ các ngành này). Điều này cho phép việc thực thi quy tắc ứng xử sát hợp hơn, nghiêm khắc hơn và không chồng lấn với nhiệm vụ giám sát hành chính của cơ quan chủ quản.

Thứ sáu, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đặc biệt là thực hiện các cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất, không báo trước để phát hiện, xử lý kịp thời các trường hợp xảy ra xung đột lợi ích gây hậu quả.

Thứ bảy, các cơ quan hành chính nhà nước cần chú ý đến việc thu thập các thông tin liên quan đến xung đột lợi ích trong thực thi công vụ. Việc nắm bắt kịp thời và toàn diện, khách quan từ các nguồn thông tin sẽ góp phần giúp đội ngũ lãnh đạo, quản lý có biện pháp xử lý kịp thời đối với các xung đột lợi ích còn tồn tại ở dạng tiềm tàng, không để xảy ra xung đột lợi ích ở thực tế gây ra hậu quả. 

Tài liệu tham khảo

1. Luật Cán bộ, công chức năm 2008.

2. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.

3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức năm 2019.

4. Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 11/7/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng.

5. TS. Trương Quốc Việt và TS. Lý Thị Huệ đồng chủ biên, Sách chuyên khảo "Quản lý xung đột lợi ích trong thực thi công vụ ở Việt Nam hiện nay”.

6. Báo cáo năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2021 (PCI 2021) của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID).

Xuân Phương

(Trích dẫn từ nguồn: cchc.khanhhoa.gov.vn)

 
Phòng Kế hoạch - Tài chính và Cơ sở vật chất