TS. Võ Văn Dũng, Đảng ủy viên, Phó Bí thư chi bộ, Phó trưởng khoa Lý luận cơ bản
1. Dẫn nhập
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mà còn để lại cho thế hệ sau một kho tàng tư tưởng vô cùng quý giá, trong đó có tư tưởng về con người. Sinh thời Hồ Chí Minh cho rằng, mục tiêu của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chính là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để đi đến giải phóng con người. Như vậy, con người vừa là chủ thể cũng là mục tiêu cao nhất của cách mạng Việt Nam, chính vì thế trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân ngay sau ngày giải phóng là phải làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở và được học hành. Người căn dặn, chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Người cho rằng, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”[1]. Kế tục quan điểm đó, Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương phải xây dựng và phát triển con người Việt Nam một cách toàn diện.
2. Nội dung
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò con người trong xã hội
Kế thừa tinh hoa tư tưởng văn hóa dân tộc và nhân loại, tiếp thu, vận dụng, phát triển một cách sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng về con người lên một tầm cao mới, hình thành nên chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Vấn đề con người trở thành mục tiêu thiêng liêng, cao cả nhất của công cuộc giải phóng và xây dựng đất nước. Nó trở thành mục tiêu, lý tưởng, được tỏa sáng trong từng suy nghĩ, cử chỉ, hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong quan điểm của Hồ Chí Minh con người tồn tại không chỉ với tư cách là một cá nhân mà còn là thành viên của gia đình và của cộng đồng. “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”[2]. Với cách hiểu này, con người có tính xã hội, là con người xã hội và thành viên của một cộng đồng xã hội. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có con người chung chung trừu tượng mà là con người cụ thể và gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Theo Hồ Chí Minh, con người là một chỉnh thể thống nhất bao gồm tâm, trí và lực. Tất cả các mối quan hệ đó được con người thể hiện bằng tình yêu, lòng nhân ái, sự hi sinh và sự hợp tác để phát triển con người toàn diện. Mỗi yếu tố đó có vai trò khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng, tác động và là điều kiện cho nhau cùng tồn tại. Hồ Chí Minh quan niệm, “Con người dù có xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”[3], chữ tình phải hiểu theo nghĩa rộng là tình người, tình quốc gia, dân tộc. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới trong điều kiện đất nước đã giành được độc lập, tự do. Trên quan điểm duy vật mácxít, Hồ Chí Minh khẳng định bản chất con người mang tính lịch sử - xã hội, con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử, con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển xã hội.
Từ việc đề cao vai trò của con người Hồ Chí Minh cho rằng, con người là vốn quý nhất, động lực quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[4]. Do vậy, làm bất kỳ việc gì cũng phải có vai trò của nhân dân, nếu không thì không thể nào làm được. Người cho rằng, “việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt. Các đồng chí ở Quảng Bình nói rất đúng: Dễ mười lần không dân cũng chịu; Khó trăm lần dân liệu cũng xong”[5]. Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất, tinh thần và giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực lượng nhân dân trong đấu tranh dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước, nhân dân có vai trò quyết định đến sự thành công của cách mạng.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí của con người trong xã hội
Lịch sử đã chứng minh rằng, trong mọi giai đoạn con người luôn có vị trí vô cùng quan trọng và quyết định đến sự phát triển của xã hội. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác đã hoàn toàn đúng khi khẳng định rằng, sự phát triển của xã hội không phải do bất kỳ lực lượng siêu nhiên nào, mà chính là con người đã sáng tạo nên lịch sử của mình - lịch sử xã hội loài người. Hồ Chí Minh đề cao vị trí của con người đối với sự nghiệp cách mạng nên Người xem con người là mục tiêu của cách mạng, chính vì thế mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều vì lợi ích chính đáng của con người. Với hoạt động thực tiễn thì việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ mấy ta phải hết sức làm, việc gì hại cho dân, dù nhỏ mấy ta phải hết sức tránh. Để biến mục tiêu giải phóng con người trở thành hiện thực Hồ Chí Minh đã giải quyết hết sức khéo léo tính biện chứng giữa mục tiêu và động lực cách mạng trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ thể của cách mạng.
Con người là động lực của cách mạng, không chỉ là cá nhân riêng lẻ mà tất cả con người Việt Nam. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, không phải là mọi người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa của dân tộc Việt Nam… Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người. Coi con người là động lực để phát triển chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có sự lãnh đạo đó là Đảng Cộng sản. Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân, từ đó sinh ra hàng trăm thứ bệnh như thói quen truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không dám nói, không dám làm, không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo. Không chỉ quan tâm đến động lực vật chất, Hồ Chí Minh còn rất chú trọng yếu tố tinh thần như đạo đức, chính trị, văn hóa, đặc biệt là chủ nghĩa dân tộc trong điều kiện đặc thù của các quốc gia phương Đông. Người cho rằng, “chủ nghĩa dân tộc là động lực của đất nước” và chính nó đã dấy lên nhiều phong trào cách mạng ở nước ta. Chủ nghĩa dân tộc của Hồ Chí Minh không phải là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, mà chính là sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người thường nói: “Anh em bốn bể là một nhà”, nên phải “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”, được như vậy thì có một sự “đại hòa hợp” và sẽ có “thành công, thành công, đại thành công” trong đấu tranh giành độc lập, tự do, cơm áo, hòa bình và phát triển xã hội. Người cũng luôn coi trọng giáo dục tinh thần làm chủ và đạo đức cách mạng cho nhân dân. Đạo đức như Người nói là do rèn luyện mà có, “cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”[6], tinh thần làm chủ và đạo đức cách mạng ở mỗi người chỉ có thể thực hiện được thông qua lao động và bằng lao động, mỗi cá nhân gắn với cộng đồng, tham gia vào sự nghiệp đấu tranh để cải tạo và xây dựng xã hội. Hồ Chí Minh nhận thấy nhân dân có vị trí vô cùng quan trọng nên Người chủ trương phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực. Khi xác định vị trí của người dân thì nhân dân mới tin, mới dám nói sự thật và đấu tranh cho lẽ phải vì sự công bằng, mới có sự sáng tạo, từ đó mà tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người
Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo và rèn luyện con người. Người nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách. Nó liên quan đến nhiệm vụ “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” và “trồng người”. Tất cả những điều này phản ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố con người; tất cả vì con người, do con người. Xây dựng con người là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định trong công tác cán bộ, công tác xây dựng Đảng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, tư tưởng có tính chiến lược đó đã được Hồ Chí Minh quán triệt trong toàn Đảng, toàn dân ta, như một nhiệm vụ có tính quy luật của cách mạng. Trong các bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh chúng ta luôn thấy sự nổi bật của vấn đề xây dựng con người, đặc biệt là con người mới xã hội chủ nghĩa. Người nói: “Muốn xã hội chủ nghĩa, phải có: người xã hội chủ nghĩa. Muốn có người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”[7]. Con người xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh, là con người thấm nhuần đạo đức cách mạng, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức làm chủ đất nước, đồng thời phấn đấu nâng cao trình độ hiểu biết về văn hóa, khoa học kỹ thuật để đủ sức xây dựng và quản lý xã hội mới. Người luôn nhắc nhờ Đảng ta bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, việc xây dựng con người mới và việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là hai việc làm đặc biệt quan trọng và có quan hệ biện chứng với nhau. Nếu không xây dựng con người mới - những người đang trực tiếp giữ vai trò quyết định trong tất cả các lĩnh vực, thì việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, khó mà thực hiện được, bởi tấm gương của con người là bài học giáo dục có tính thuyết phục nhất. Ngược lại, chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, thì sẽ tạo ra những con người mới kế tục và phát triển sự nghiệp cách mạng theo định hướng đúng đắn.
Hồ Chí Minh luôn lưu ý sự nghiệp “trồng người” phải được thực hiện ngay từ rất sớm: Uốn cây từ lúc cây non, cho nên cần ưu tiên chăm lo giáo dục, đào tạo các cháu thiếu niên, nhi đồng. Uốn nắn cả một lớp người, một thế hệ đó là trách nhiệm của toàn xã hội, của Đảng và Chính phủ. Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục - đào tạo là biện pháp quan trọng nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên. Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức, tài thống nhất với nhau, trong đó đức là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm... có như vậy mới có thể học để làm người. Trồng người là công việc làm rất lâu dài, không thể nóng vội, không phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện đến đâu hay đến đó. Mà phải là chiến lược lâu dài, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Người rất chú trọng đến việc đào tạo con người, đặc biệt là đào tạo cán bộ. Vì, cán bộ là cái gốc của mọi công việc, “không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu”[8]. Do vậy, trong quá trình hoạt động, Người luôn nghĩ đến việc đào tạo cán bộ cách mạng. Việc đào tạo cán bộ phải được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau như: gửi người sang đào tạo ở trường Phương Đông, tổ chức huấn luyện trực tiếp, viết sách báo, tài liệu tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, v.v.. Nhờ vào việc đào tạo bài bản đã cho ra đời những cán bộ có tâm, có tầm và có trí để giáo dục quần chúng và đưa cách mạng Việt Nam phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc giáo dục đó đã xây dựng được một đội ngũ thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, vừa hồng vừa chuyên. Đó là những con người mới có đạo đức cách mạng, vừa sản xuất giỏi, vừa chiến đấu giỏi, hiện diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hồ Chí Minh bao giờ cũng gắn liền việc giáo dục, đào tạo con người với hoạt động thực tiễn và lấy kết quả trong hoạt động thực tiễn làm thước đo giáo dục, đào tạo.
Vấn đề giáo dục đạo đức cho con người được Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng. Việc giáo dục đạo đức phải được bắt đầu từ nhỏ, nhiệm vụ của việc giáo dục đạo đức đối với các cháu thiếu niên, nhi đồng là của toàn xã hội, và phương pháp giáo dục tốt nhất là phương pháp nêu gương. Trong nội dung giáo dục, Hồ Chí Minh chủ trương phải giáo dục toàn diện bao gồm: thể dục, trí dục, mỹ dục và đức dục. Tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (7-5-1958), Người nói: “Thanh niên bây giờ là một thế hệ vẻ vang, vì vậy cho nên phải tự giác tự nguyện mà tự động cải tạo tư tưởng của mình để xứng đáng với nhiệm vụ của mình. Tức là thanh niên phải có đức, có tài”[9]. Người thanh niên có đạo đức là những người luôn sẵn sàng đối mặt với những khó khăn thử thách. Làm việc gì cũng nghĩ đến lợi ích chung trước và phải luôn kịp thời sửa chữa những khuyết điểm của mình. Phải luôn biết kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, lao động trí óc nếu không biết vận dụng lý thuyết vào thực tiễn thì chỉ là lao động trí óc một nửa, còn lao động chân tay mà không có văn hóa, không có trí tuệ thì làm việc gì cũng hỏng. Đối với công nhân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Công đoàn phải giáo dục cho công nhân về đạo đức vô sản, đạo đức cách mạng”[10]. Giai cấp công nhân là lực lượng nòng cốt của Đảng do vậy phải hiểu tương lai của công nhân và tương lai của xí nghiệp luôn gắn liền với nhau. Mỗi cá nhân phải hiểu mình là chủ xí nghiệp, chủ nước nhà, hiểu lao động là vẻ vang, phải giữ gìn của công, chống tham ô lãng phí, phải bảo vệ kỷ luật lao động, phải thi đua làm tốt, nhiều, mau, rẻ. Công nhân cần phải hiểu lao động là vẻ vang, là động lực cho toàn xã hội phát triển. Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc việc phát huy vai trò của tất cả tầng lớp nhân dân trong việc xây dựng con người mới trong quá trình bảo vệ và xây dựng đất nước. Việc giáo dục tâm, trí cho toàn dân là việc làm cần thiết. Tuy nhiên việc giáo dục phải có tính phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Người chú trọng xây dựng con người toàn diện, nhưng đạo đức cách mạng luôn đặt lên hàng đầu.
Hồ Chí Minh cho rằng, người có “tâm” chính là người có đạo đức và đạo đức phải xét trên hai phương diện đó là lý luận và thực tiễn đối với con người. Về mặt lý luận, Người để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu sắc và toàn diện về đạo đức. Về thực tiễn, Người luôn coi thực hành đạo đức là một mặt không thể thiếu của con người nói chung và của cán bộ, đảng viên nói riêng. “Tâm” ở đây chính là người có lý tưởng về sự giải phóng con người, có lý tưởng mang lại hạnh phúc, tự do cho con người. Người có tâm là người không vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người tiến bộ. Hồ Chí Minh quyết tâm xây dựng đạo đức cách mạng vì Người chủ trương xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân, phụng sự nhân dân vì mục tiêu chung. Do vậy, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải có đạo đức cách mạng để có thể “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, thực sự là đầy tớ của nhân dân. Nếu người cách mạng không có đạo đức thì khó có sức chịu đựng kiên trì, dẻo dai và không thể hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Người nói: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước”[11]. Nếu người cán bộ có tâm với cách mạng thì chỉ lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt, đêm ngày nghĩ đến sự nghiệp cách mạng và cứu độ nhân loại, và lúc nào cũng luôn giữ kỷ luật, hoạt bát, siêng năng, dũng cảm, có sáng kiến, trở thành tấm gương điển hình cho dân noi theo. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất, toàn diện nhất. Muốn thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng ấy, chúng ta phải đem hết tinh thần và lực lượng ra phấn đấu, phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng không phải tự nhiên mà có, nó phải qua quá trình tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện gian khổ mới có được. Người không chỉ là nhà lý luận đạo đức mà còn là một tấm gương đạo đức sáng ngời về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Bản thân Người đã thực hiện một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn những tư tưởng và khát vọng đạo đức cách mạng. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân và các thế hệ kế cận để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng đặt ra trong mỗi giai đoạn. Con đường đi đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường đấu tranh lâu dài, khó khăn, con đường của các thế hệ nối tiếp nhau, bởi lẽ sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp rất to lớn, khó khăn và nặng nề. Nó đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ, hơn nữa còn của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy phải là công việc thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi người trong xã hội. Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức cách mạng là một trong những yếu tố hàng đầu giữ vai trò quyết định sự phát triển của sự nghiệp cách mạng, là bộ phận trọng yếu của nền tảng tinh thần xã hội mới. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng, hay muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải lấy đạo đức làm gốc.
Hồ Chí Minh cho rằng, nhân tài là nguyên khí của quốc gia do vậy Người luôn chú trọng phát triển trí tuệ con người. Người nói: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế. Chứng thực là trong cuộc kháng chiến cứu quốc này, những người trí thức Việt Nam đã chung một phần quan trọng. Một số thì trực tiếp tham gia vào công việc kháng chiến, hi sinh cực khổ, chen vai thích cánh với bộ đội nhân dân. Một số thì hăng hái hoạt động giúp đỡ ở ngoài”[12]. Hồ Chí Minh cho rằng, những người có trí tuệ chân chính là những người biết đem sự hiểu biết của mình, tài năng, đạo đức của mình tham gia công cuộc bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển đất nước. Khi đất nước bị xâm lăng, phải biết đem tài đức của mình ra phục vụ sự nghiệp đánh giặc, cứu nước như là “chiến sĩ trí thức”. Khi đất nước hòa bình phải biết đem tri thức khoa học cống hiến cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc, xây dựng kiến thiết đất nước. Người cho rằng: “Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác”[13]. Theo Hồ Chí Minh, con người có trí tuệ là người nhận thức rõ được những đặc điểm yêu cầu to lớn của hoàn cảnh đất nước và thế giới. Không chỉ là những người có trình độ hiểu biết, tài năng mà còn phải là những người có đạo đức. Trong đó, phẩm chất đạo đức cao quý nhất là phải biết phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng.
Hồ Chí Minh cho rằng, chiến lược trồng người phải chú trọng đến việc phát triển trí tuệ con người. Xuất phát từ mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh quan niệm việc phát triển trí tuệ con người không cần chú trọng đến sự xuất thân, giai cấp, tôn giáo miễn là họ có tinh thần yêu nước là được. Hồ Chí Minh xem người có trí tuệ là những người lao động bằng trí óc chứ không phải lao động bằng chân tay. Xuất phát từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng, trí thức là vốn quý của dân tộc. Từ hậu quả của chính sách chia để trị của thực dân Pháp đối với nhân dân ta, Hồ Chí Minh cho rằng, trong chiến lược trồng người cần chú trọng đến phát triển trí tuệ cho nhân dân. Do đó, việc phát triển trí thức trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng đối với cách mạng Việt Nam. Điều đó đã được Hồ Chí Minh khẳng định cả trong tư tưởng, quan điểm và trong thực tiễn hoạt động cách mạng. Trước hết là sự nỗ lực của Hồ Chí Minh trong việc đào tạo, xây dựng đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng yêu cầu của cách mạng Việt Nam cả trước mắt và lâu dài. Cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ đã làm cho yêu cầu về phát triển trí tuệ con người ngày càng cấp thiết. Để chiến thắng những thế lực phản động hùng mạnh nhất thời đại, chúng ta không chỉ chấp nhận hi sinh nhiều của, nhiều người mà còn phải chiến thắng chúng về khoa học, công nghệ, trí tuệ, phẩm giá, nhân cách. Người nói, những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều. Với tầm nhìn sâu xa về vai trò phát triển trí tuệ của con người, Hồ Chí Minh đã khơi dậy ngọn lửa tinh thần yêu nước và ý chí quật cường, tinh thần tự lực, tự cường của dân tộc, trong đó có lực lượng tinh hoa là trí thức, tập trung được sức mạnh tổng hợp trong những thời điểm đất nước đặc biệt khó khăn, góp phần to lớn vào thực hiện thắng lợi từng nhiệm vụ cũng như toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam.
Trong chiến lược trồng người, Hồ Chí Minh không dừng lại ở việc đề cao tư tưởng phát triển tâm, trí mà Người còn đề cao tư tưởng phát triển thể lực. Vốn thấu hiểu được sự đau khổ của người dân trong cảnh đọa đày, Hồ Chí Minh cho rằng vốn quý nhất của con người là sức khỏe. Chính vì xem sức khỏe là vốn quý nhất nên Người thường xuyên nhắc nhở đến việc luyện tập thể dục thể thao. Hồ Chí Minh cho rằng: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nhà nước, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công”[14]. Bởi mỗi cá nhân yếu sẽ kéo theo tập thể yếu, mỗi tập thể yếu sẽ kéo theo cả nước yếu và mỗi người dân mạnh khỏe thì tập thể sẽ mạnh khỏe kéo theo cả nước mạnh khỏe. Chính vì xem sức khỏe là vốn quý nhất nên Hồ Chí Minh cho rằng việc tập luyện thể dục thể thao, bồi dưỡng sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân yêu nước. Việc luyện tập thể dục thể thao để nâng cao sức khỏe và tầm vóc không tốn kém vì mỗi ngày chúng ta chỉ cần bỏ ra một ít thời gian vào buổi sáng là được. “Ngày nào cũng tập thì khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ, như vậy là sức khỏe”[15]. Với quan điểm “dân cường thì quốc thịnh”, Hồ Chí Minh mong rằng ai cũng chú trọng đến việc bảo vệ sức khỏe cho bản thân. Đối với học sinh Người căn dặn, ngoài việc học tập còn phải siêng năng tập luyện thể dục thể thao cho mình mẩy được nở nang. Đối với thanh niên đang yếu ớt trở cần phải rèn luyện để trở nên khỏe mạnh nhằm giúp ích cho bản thân và đất nước. Nhiệm vụ của trường thể dục là phải làm cho toàn thể đồng bào cùng khỏe, phải phổ thông hóa, đại chúng hóa, dân chủ hóa thể dục. Người cho rằng, ở nông thôn cũng như ở thành thị còn rất nhiều người yết ớt do vậy nhiệm vụ của cán bộ và trường học là phải tổ chức cho họ tập luyện để có sức khỏe. Trong thư gửi các em học sinh ngày 24-10-1955, Hồ Chí Minh kêu gọi “để làm cho thân thể khỏe mạnh, đồng thời cần giữ vệ sinh riêng và vệ sinh chung”. Thanh niên phải rèn luyện cho thân thể khỏe mạnh và khi khỏe mạnh rồi thì mới có đủ sức để tham gia một cách dẻo dai, bền bỉ những công việc có ích cho đất nước. Hồ Chí Minh chủ trương giáo dục thanh niên về đức dục, trí dục và thể dục để đáp ứng nhu cầu xã hội trong giai đoạn mới. Người rất coi trọng phát triển thể dục thể thao để nâng cao thể lực cho người dân. Người cho rằng, sức khỏe là vốn quý nhất của con người, của cách mạng và trong xây dựng đất nước. Khi con người có đủ sức khỏe thì mới có cuộc sống hạnh phúc và mới có thể làm chủ được chính mình. Chiến lược trồng người của Hồ Chí Minh là một trong những di sản quý giá của Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc Việt Nam. Đây là quan điểm nhất quán và xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người. Nòng cốt của chiến lược trồng người của Hồ Chí Minh là đào tạo ra một thế hệ có đầy đủ các yếu tố “tâm, trí, thể”.
2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng con người
Vấn đề sử dụng con người là một vấn đề cấp bách được đặt ra ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Lúc này nhiệm vụ hàng đầu được đặt ra là phải xây dựng một bộ máy chính quyền cách mạng. Sau khi chính quyền được thành lập hơn một tháng, Hồ Chí Minh nhận thấy, “nhiều nơi cách làm việc vẫn chưa đâu vào đâu cả. Ta có thể nói: một khuyết điểm lớn, chung cho phần đông các Ủy ban nhân dân là bệnh lộn xộn, thiếu tổ chức”[16], cán bộ thì thiếu rất nhiều. Để khắc phục được tình trạng đó Hồ Chí Minh chủ trương: “việc dùng nhân tài, ta không nên căn cứ vào những điều kiện quá khắt khe. Miễn là không phản lại quyền lợi dân chúng, không là Việt gian, thân Pháp, thân Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc là có thể dùng được”[17]. Nhận thức được vị trí, vai trò của nhân tài là rường cột của nước nhà Hồ Chí Minh chủ trương: “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy”[18]. Đây là sự tài tình trong việc sử dụng con người của Hồ Chí Minh và việc ấy phù hợp với hoàn cảnh của đất nước lúc đó. Hồ Chí Minh khẳng định việc sử dụng đúng người đúng việc sẽ không lo thiếu cán bộ, vấn đề cốt lõi là cần phải biết sử dụng và trọng dụng nhân tài. Hồ Chí Minh cho rằng: “Sau 80 năm bị bọn Pháp thực dân giày vò, nước Việt Nam ta cái gì cũng kém cỏi, chỉ có lòng sốt sắng của dân là rất cao. Nay muốn giữ vững nền độc lập thì chúng ta phải đem hết lòng hăng hái đó vào con đường kiến quốc”[19], muốn kiến thiết đất nước cần có nhân tài. “Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm những nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”[20]. Trước thực trạng thiếu hụt về nhân tài trong bộ máy nhà nước, Người đã ra sức kêu gọi người dân ai có tài năng, sáng kiến và sẵn lòng giúp cho nước nhà thì xin gửi kế hoạch cho Chính phủ. Chính phủ sẽ nghiên cứu các kế sách một cách nghiêm túc, nếu có thể thực thi thì sẽ thực hành ngay. Vào ngày 20-11-1946, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa đổi điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”[21]. Hồ Chí Minh nhận thấy việc sử dụng con người có vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định đến vận mệnh của một dân tộc. Nhờ vào việc chú trọng và phát hiện nhân tài nên ngay khi Người kêu gọi những người có đức, có tài đã góp sức vào sự nghiệp kiến quốc và bảo vệ đất nước ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng. Người cũng cho rằng, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém và cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Từ nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, Đảng cần phải đào tạo bồi dưỡng cán bộ, phải biết đánh giá, lựa chọn sử dụng, trọng dụng đúng cán bộ. Trọng dụng, sử dụng đúng nhân tài là vấn đề cực kỳ quan trọng trong phương sách dùng người. Hồ Chí Minh cho rằng, nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ cũng không được việc, nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người chỉ nói mà không làm vào địa vị lãnh đạo, như thế rất có hại. Việc sử dụng con người phải có nghệ thuật, nghệ thuật ở đây là phải giao đúng người đúng việc, đặt con người đúng chỗ, phải biết đánh giá đúng con người và cảm hóa họ khi họ có lỗi lầm, khuyết điểm để họ nhận ra và sửa chữa rồi mang hết tài năng của mình ra cống hiến cho đất nước.
Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng người có đức trong bộ máy lãnh đạo để phát huy vai trò của người dân. Hồ Chí Minh cho rằng chính sách “chiêu hiền đãi sĩ” phải được thể hiện một tầm nhìn xa rộng, đó là tôn vinh và sử dụng người tài. Hồ Chí Minh cho rằng muốn dùng người cho đúng, trước tiên phải hiểu đúng, đánh giá đúng con người, mà muốn hiểu đúng, đánh giá đúng con người thì trước tiên phải biết đúng sai phải trái. Nói cách khác, người lãnh đạo tự thân mình phải “chính”, nghĩa là phải gương mẫu, phải khách quan, vô tư, công bằng, thẳng thắn, không định kiến, không thiên vị, có vậy mới phân biệt được đâu là đúng, đâu là sai. Người cũng chỉ ra những chứng bệnh mà con người thường phạm phải là “tự cao tự đại”, “ưa người ta xu nịnh”, “do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người”, “đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lấp vào tất cả mọi người khác nhau”. Muốn hiểu đúng, đánh giá đúng con người thì phải có cái nhìn đúng toàn diện, lịch sử cụ thể. Việc sử dụng con người không chỉ xem ngoài mặt, mà phải xem tính chất của họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem toàn diện cả lịch sử, toàn cả công việc của họ bởi vì thế giới cái gì cũng biến hóa, tư tưởng con người cũng không phải là ngoại lệ. Hồ Chí Minh cho rằng, đánh giá con người là một quá trình, phải nghiên cứu đến “cội rễ”, phân tích rõ ràng rồi mới quyết định. Khi đã đánh giá được vai trò của mỗi cá nhân, người lãnh đạo phải biết cách dùng người. Tránh tình trạng sử dụng người không đúng như thích sử dụng những người họ hàng thân thích, ham dùng kẻ khéo nịnh, mà chán ghét những kẻ chính trực, ham dùng những kẻ hợp tính với mình mà tránh những người không hợp tính với mình. Chính vì việc dùng người không đúng nên khi cấp dưới làm bậy họ cứ bao che, với người chính trực thì chán ghét, xa lánh. Khi người tài xa lánh sẽ dẫn đến hỏng cả công việc của Đảng. Người lãnh đạo muốn khéo dùng người thì phải có sự độ lượng, chí công vô tư, phải sáng suốt, vui vẻ, thân mật để cấp dưới dễ gần gũi, phải có tính chịu khó dạy bảo để nâng đỡ những người còn kém, giúp họ tiến bộ. Phải khiến cho cán bộ có gan nói, có gan đề xuất ý kiến, có gan phụ trách, có gan làm, đồng thời phát huy được tính chủ động, sáng tạo và tài năng của họ. Người lãnh đạo không nên tự tôn, tự đại, mà phải nghe, phải hỏi ý kiến của cấp dưới, nếu cán bộ không nói năng, không đề ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không nói gì nhưng vì họ không dám nói, họ sợ.
Để sử dụng con người có hiệu quả và nhất là con người có tài và có đức, Hồ Chí Minh cho rằng cần phải đào tạo và phát huy tài năng của họ. Theo Hồ Chí Minh, việc trọng dụng, phát huy tốt tài năng trí tuệ và phẩm chất của con người là những bài học sinh động, quý báu và có nhiều ý nghĩa quan trọng đối với cách mạng Việt Nam. Tư tưởng về sử dụng người tài đã phát huy được sức mạnh tinh thần và ý chí lực lượng nhân lực tinh hoa của dân tộc. Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến việc tìm kiếm người tài đức trong xã hội để mời họ ra góp sức cho dân, cho nước. Để sử dụng nhân tài, Hồ Chí Minh luôn kết hợp huấn luyện với sử dụng, huấn luyện trước khi sử dụng và khi sử dụng vẫn tiếp tục huấn luyện. Để có người trung thành với Tổ quốc và nhân dân, Người giáo dục lý tưởng cách mạng cho họ.
Hồ Chí Minh cho rằng, khi việc cất nhắc cán bộ là khâu chủ yếu nhất của việc dùng người. Do vậy, việc cất nhắc phải bắt nguồn từ nhu cầu thực tế đơn vị, người được cất nhắc phải thực sự có tài năng, đạo đức. Trước khi cất nhắc phải hiểu đúng, hiểu rõ toàn diện con người, phải biết cả ưu và nhược điểm của họ. Đặc biệt là những người có đạo đức cách mạng, trung thực, giản dị. Việc phân phối cán bộ, phải cân nhắc cẩn thận, phân phối cho đúng người, đúng việc, tùy yêu cầu của công việc mà phân phối, bố trí người chứ không phải vì người mà phải sắp xếp việc. Người cũng lưu ý, sau khi cất nhắc cán bộ, người lãnh đạo cần phải tiếp tục giúp đỡ để họ phát triển, tự tin, hoàn thành công việc giao phó. Trong việc sử dụng con người, Hồ Chí Minh cũng đặc biệt lưu ý vấn đề kết hợp giữa thế hệ cán bộ già và trẻ. Người phê phán tư tưởng cán bộ già coi thường cán bộ trẻ, và yêu cầu cán bộ già, các tổ chức đảng phải lưu tâm dìu dắt thế hệ trẻ, bất kỳ ai có khả năng, đủ tiêu chuẩn, cần cho nhu cầu cách mạng là phải dùng, phải đào tạo thanh niên cho họ làm việc hơn mình. Hồ Chí Minh cho rằng việc sử dụng con người phải có lòng yêu thương, phải vun đắp cho con người ý chí, nghị lực và quyết tâm để vượt qua mọi cám dỗ đời thường, phải làm cho họ tự tin, dám nói, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, Người cũng cho rằng mỗi con người luôn chịu sự cám dỗ của cuộc sống nên khó tránh khỏi có khuyết điểm. Để khắc phục được điều đó, mỗi con người phải thường xuyên phê bình và tự phê bình. Nhờ vào việc sử dụng con người đúng đắn và trọng dụng nhân tài nên Hồ Chí Minh đã kêu gọi được những người có đức, có tài, có nhiệt tình cách mạng tham gia vào bộ máy chính quyền.
Trong mối quan hệ giữa đức và tài, Người nói: “chính trị là đức, chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức là hỏng... Đức phải có trước tài”[22]. Đức phải có trước tài nhưng trong đức phải có tài. Do vậy, Người dặn: “Ngày nay, Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những thạo về chính trị, mà còn phải giỏi về chuyên môn”[23]. Đạo đức cách mạng phải gắn kết hữu cơ với tài năng, trí tuệ, Người nói: “Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người”[24]. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải quan hệ mật thiết với nhau, kết hợp với nhau để hoàn thành được nhiệm vụ của cách mạng. Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, đạo đức cách mạng giúp con người nhận thức được ranh giới giữa chính nghĩa và phi nghĩa, từ đó xác định đúng hướng đi, sống có hoài bão, có lý tưởng, tận trung với nước, tận hiếu với dân, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đạo đức cách mạng là chỗ dựa giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách, nhất là nhiệm vụ cách mạng. Người so sánh: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Đạo đức cách mạng là phần tốt đẹp nhất trong nhân cách con người, là nơi hội tụ của tinh thần quả cảm, giúp con người giữ vững khí tiết của người cộng sản, quyết không khuất phục trước kẻ thù. Hồ Chí Minh nói: “các đồng chí ta mà bị hi sinh trong lúc làm việc bí mật trước cách mạng, bị nó bắt được, nó treo, nó kẹp, nó tra tấn, nó bắn nhưng nhất định không nói, chẳng những không nói mà còn chửi vào mặt nó”[25]. Trong những thời điểm nhất định, sức mạnh của đạo đức cách mạng có thể vượt lên trên yếu tố vật chất, giúp con người làm được những việc phi thường. Người khẳng định, đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu. Có như thế mới thắng được địch và thực hiện được nhiệm vụ cách mạng. Khi cán bộ, đảng viên có đạo đức cách mạng sẽ hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng… làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết quần chúng chặt chẽ chung quanh Đảng. Chính nhờ giữ vững đạo đức cách mạng, nhờ sức mạnh của ý chí và niềm tin, của sự đoàn kết một lòng, dựa vào sức mạnh toàn dân mà quân và dân ta đã chiến thắng hai kẻ thù sừng sỏ, hùng mạnh là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mặc dù cuộc chiến đó không hề cân sức.
Trong thời kỳ kiến thiết, xây dựng và phát triển đất nước, đạo đức cách mạng giúp mỗi người nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội để điều chỉnh hành vi của mình, nêu cao ý thức trách nhiệm bảo vệ lợi ích cộng đồng; nêu cao chủ nghĩa tập thể, quét sạch chủ nghĩa cá nhân; rèn luyện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tính cách chân thành, khiêm tốn, thật thà, đoàn kết, bác ái, ra sức phụng sự nhân dân, xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh. Đạo đức cách mạng giúp con người có tinh thần lạc quan mãnh liệt, ý chí vững vàng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, giữ vững niềm tin sắt đá chiến thắng không những trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc mà còn cả trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định, có đạo đức cách mạng thì: “khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, mới lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”[26]. Vai trò của đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chỗ đó là thước đo lòng cao thượng của con người, là động lực giúp con người hoàn thiện hơn.
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám, thành lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và đặc biệt là trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước hiện nay. Tất cả những thành công vang dội đó không chỉ thể hiện đường lối chính trị đúng đắn của Đảng mà còn thể hiện niềm tin sắt đá của dân đối với Đảng. Dân tin Đảng, đi theo sự lãnh đạo của Đảng không phải chỉ vì Đảng đã kết tinh được trí tuệ của dân tộc, đại diện cho trí tuệ của dân tộc mà còn vì các cán bộ, đảng viên của Đảng đã chiến đấu không mệt mỏi và đã sẵn sàng hi sinh quên mình vì độc lập của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, đặt lợi ích của dân tộc, của nhân dân lên trên hết. Đây chính là cơ sở thực tiễn xác nhận tính khoa học và tính cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Rõ ràng, Đảng ngày càng khẳng định vị trí, vai trò vô cùng quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đối với việc phát triển nhân cách con người xã hội chủ nghĩa Việt Nam phục vụ sự nghiệp cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Như vậy, Hồ Chí Minh xem đạo đức cách mạng là phẩm chất không thể thiếu của người cách mạng. Có đạo đức cách mạng làm nền tảng giúp con người nâng cao bản lĩnh và năng lực cách mạng, kiên trì và quyết đi đến cùng mục tiêu xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân. Hồ Chí Minh cho rằng tư cách của người cách mạng là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp các thế hệ người Việt Nam vững tin đi vào con đường cách mạng và đưa sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản đến thắng lợi cuối cùng. Việc đề cao người có đức có tài của Hồ Chí Minh không chỉ tạo nên sức mạnh chiến thắng kẻ thù, chiến thắng mọi khó khăn, gian khổ mà còn là thước đo lòng cao thượng của con người, từ đó xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, văn minh hơn, bền vững hơn. Đây là quan điểm rất có ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam hiện nay.
3. Thay lời kết
Hồ Chí Minh cho rằng, trong xã hội con người là vốn quý nhất, trên quan điểm đó Người rất chú trọng đến việc phát huy nhân tố con người Việt Nam để đáp ứng nhu cầu của lịch sử. Quan điểm này có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ với Việt Nam mà còn đối với cả thế giới. Bởi trong bất kỳ thời đại nào thì con người luôn là nguồn lực của mọi nguồn lực quyết định sự phát triển của đất nước. Với việc khẳng định con người không chỉ có vai trò quyết định nhất của công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn là nhân tố chủ đạo trong xây và phát triển đất nước. Quan điểm phát huy nhân tố con người của Hồ Chí Minh đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Xây dựng và phát triển con người là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội, dù ở bất cứ đâu, trong bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào, sự phát triển con người luôn là thước đo, là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Chính vì vậy, việc giáo dục, đào tạo con người đóng vai trò vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Hồ Chí Minh xem “trồng người” là một chiến lược vừa cơ bản, lâu dài, vừa là quốc sách hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Người nhiều lần khẳng định vai trò của giáo dục đối với sự hình thành nhân cách con người. Một mặt, giáo dục là sự tác động có mục đích, có hệ thống, theo một tổ chức chặt chẽ, nó phác thảo trước mô hình nhân cách cần đạt đến. Mặt khác, giáo dục truyền lại những thành tựu của nền văn minh xã hội theo con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất. Nhân cách con người được hoàn thiện bởi một nền giáo dục xã hội và tự giáo dục toàn diện sẽ trở thành những người vừa “hồng”, vừa “chuyên”; vừa có phẩm chất, vừa có năng lực; những công dân tốt, những cán bộ tốt, sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam mới.
4. Tài liệu tham khảo
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr.604.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.130.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.8, tr.99.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.10, tr.453.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.11, tr.280.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.12, tr.612.
Võ Văn Dũng, Lưu Mai Hoa, 2022, Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc đào tạo con người mới ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. Mã số ISBN: 978-604-962-724-8.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.12, tr.604.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.6, tr.130.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.8, tr.99.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.10, tr.453.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr.280.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.11, tr.612.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.11, tr.595.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.10, tr.345.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.11, tr.399.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.10, tr.477.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.11, tr.602.
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.184.
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.275.
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr.241.
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr.241.
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr.42.
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr.43.
[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr.43.
[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr.114.
[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr.114.
[21] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr.504.
[22] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.12, tr.269.
[23] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.13, tr.69.
[24] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.11, tr.399.
[25] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.10, tr.580.
[26] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.11, tr.603.